Diễn biến Chiến_dịch_CQ-88

Giai đoạn 1977-1978

Trong Chiến dịch Trường Sa và các đảo trên Biển Đông, từ ngày 9 đến ngày 29-4-1975, Hải quân Nhân dân Việt Nam đã sử dụng 3 tàu vận tải có vũ trang nhẹ T673, T674, T675, vận chuyển 1 Đại đội Đặc công thủy của Lữ đoàn 126, 1 Đại đội hỏa lực của Tiểu đoàn bộ binh 471 bộ đội Địa phương quân khu V ra quần đảo Trường Sa, thu hồi 5 đảo Song Tử Tây, Sơn Ca, Nam Yết, Sinh TồnTrường Sa Lớn.

Tháng 2 năm 1978, Philippines bất ngờ cho quân đổ bộ chiếm đóng đảo Bến Lạc (tên cũ là đảo Dừa). Ngày 10-3-1978, Hải quân Nhân dân Việt Nam phái tàu vận tải có vũ trang HQ-617 ra giữ đảo An Bang. Ngày 11-3-1978, một tàu chiến của Malaysia định đưa một nhóm người lên đảo An Bang nhưng phải dừng lại vì bộ đội Việt Nam đã có mặt tại đó. Tàu chiến Malaysia chĩa nòng pháo uy hiếp rồi bỏ đi.[6][7]. Ngày 15-3-1978, Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam phái tàu HQ-679 của Hải đoàn 128 đưa một phân đội của Lữ đoàn 146 cùng một số cán bộ của Bộ Tham mưu Quân chủng Hải quân đổ bộ lên bảo vệ đảo Sinh Tồn Đông (tên cũ là đảo đá Grierson).

Ngày 30-3-1978, Tàu vận tải HQ-680 thuộc Lữ đoàn 128 vận chuyển một phân đội của Lữ đoàn 146 do Đại úy Vũ Xuân Hòa chỉ huy ra phòng thủ đảo Hòn Sập. Ngày 7-5-1978, đảo này được đổi tên thành đảo Phan Vinh, tên một Anh hùng lực lượng vũ trang của Hải quân Nhân dân Viêt Nam. Ngày 4-4-1978, Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân Việt Nam tiếp tục phái tàu HQ-681 thuộc Lữ đoàn 125 đưa 19 cán bộ, chiến sĩ của Lữ đoàn 146 do Tham mưu trưởng Trung đoàn Nguyễn Trung Cang chỉ huy ra củng cố phòng ngự đảo Trường Sa Đông. Cũng trong tháng 4-1978, Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân điều động tàu đổ bộ HQ-501 (chiến lợi phẩm) đưa 1 phân đội của Lữ đoàn 146 do đồng chí Kỳ phụ trách ra đóng giữ. Do điều kiện vật chất chưa đảm bảo, đến tháng 5-1978, phân đội được rút về đất liền.

Trong tháng 11-1978, Malaysia cho tàu chiến bao vây, uy hiếp các chiến sĩ Hải quân Việt Nam đóng giữ đảo An Bang trong thời gian 11 ngày liền nhưng không thể bức rút các lực lượng Việt Nam. Cuối cùng, các tàu chiến Malaysia phải rút lui. Tập thể cán bộ, chiến sĩ đảo An Bang và Đảo trưởng, Thượng úy Đào Minh Thu được tặng thưởng Huân chương Chiến công.[6]

Trong năm 1978, Hải quân Nhân dân Việt Nam đã đóng giữ thêm 4 đảo ở quần đảo Trường Sa, nâng số lượng kiểm soát thực thể địa lý lên 9 điểm đảo. Philippines chiếm thêm 1 điểm đảo.

Giai đoạn 1979 - 1987

Trong các năm từ 1979 đến 1982, tình hình tranh chấp thực địa trên quần đảo Trường Sa tương đối yên tĩnh nhưng các cuộc đấu tranh ngoại giao khá căng thẳng. Ngày 21-12-1979, Malaysia cho xuất bản một bản đồ vẽ ranh giới lãnh hải của Malaysia lấn vào khoảng 4,4 km2 vùng biển phía Nam của quần đảo Trường Sa, trong đó có các đảo An Bang, Thuyền Chài do Quân đội Nhân dân Việt Nam đang đóng giữ và đảo Công Đo do Philippines đang chiếm giữ. Ngày 29-4-1980, Bộ Ngoai giao Việt Nam gửi công hàm cho Malaysia phản đối việc làm này và ngày 8-5-1980, nhân chuyến đi thăm và hội đàm với Ngoại trưởng Malaysia, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch đã khẳng định đảo An Bang là của Việt Nam.

Cũng trong tháng 5-1980, Trung Quốc thành lập Binh chủng Hải quân đánh bộ (PLANMC) trực thuộc Quân chủng Hải quân Trung Quốc với Lữ đoàn lính thủ đánh bộ số 1 được thành lập. Sở chỉ huy Hạm đội Nam Hải của Trung Quốc được chuyển từ Quảng Châu xuống Trạm Giang. Các máy bay ném bom tầm xa H-6 của Trung Quốc bắt đầu các chuyến bay tuần tra trên quần đảo Trường Sa.[8]

Năm 1982, phía Malaysia đã làm cho tình hình tranh chấp trên thực địa phía Nam Biển Đông căng thẳng trở lại. Malaysia cho dựng cột mốc, dựng cột cờ trên đảo Hoa Lau (Swallow Reef, Malaysia gọi là Terumbu Layang Layang). Tháng 6-1982, đích thân Tổng Tham mưu trưởng quân đội Malaysia là tướng Ta Sri Mohamed Chazali chỉ huy, tổ chức một cuộc hành quân chiếm đóng đảo Hoa Lau ở phía Đông Nam đảo An Bang 60 hải lý. Hành động này của Malaysia nằm trong ý đồ yêu sách chủ quyền trên một vùng biển rộng 150 hải lý vuông tính từ đảo Hoa Lau trở về vùng biển Malaysia, đồng thời đặt một vị trí để tranh chấp một phần quần đảo Trường Sa. Tướng Ta Sri Mohamed Chazali tuyên bố “bảo đảm chắc chắn rằng các vùng ngoài biển của chúng ta được an toàn”. Malaysia đã cho công binh đào một con kênh qua bãi san hô vào sát đảo dài 1.800 mét, rộng 300 mét cho tàu thuyền vào trú đậu an toàn, xây dựng thành một điểm tựa quân sự có sân bay. Phía Việt Nam đã gửi công hàm phản đối hành động này.

Từ tháng 12-1986 đến tháng 1-1987, Malaysia liên tiếp cho hai Trung đội lính Đặc nhiệm Hải quân (PASKAL) ra chiếm đống Đá Kỳ Vân (Mariveles Reef, Malaysia gọi là Terumbu Mantanani) và Bãi Kiêu Ngựa (Ardasier Reef, Malaysia gọi là Terumbu Mantanani và Terumbu Ubi). Philippines đẩy mạnh việc vận chuyển xây dựng công trình trên các đảo của họ đóng giữ là đảo Song Tử Đông và bãi cạn An Nhơn (Lamkiam Cay)

Bước sang năm 1987, tình hình tranh chấp chủ quyền trên thực địa ở Trường Sa căng thẳng trở lại. Trung Quốc cho máy bay và tàu chiến tăng cường trinh sát từ đảo Song Tử Tây đến bãi Thuyền Chài. Malaysia cho 2 tàu khu trục hoạt động cách đảo An Bang từ 7 đến 10 hải lý, mở luồng và khởi công xây dựng cầu tàu ở đảo đá Hoa Lau. Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam chủ trương sử dụng 1 đại đội hải quân đánh bộ gồm 3 trung đội di chuyển trên 3 phao bè, được trang bị vũ khí hỏa lực mạnh, sẵn sàng đóng giữ Thuyền Chài. Bộ Chỉ huy Vùng 4 Hải quân cũng tổ chức 1 phân đội công binh - công trình để xây dựng kết hợp với neo giữ phao bè tại bãi Thuyền Chài, nghiên cứu luồng lạch, vị trí, phương hướng đưa phao bè vào vị trí đóng giữ đảo. Một lực lượng dự bị gồm 1 phân đội chiến đấu của Lữ đoàn 146 và 1 phân đội của đảo Trường Sa được đặt trong tình trạng sẵn sàng cơ động chi viện cho lực lượng ở bãi Thuyền Chài khi cần thiết.

Từ ngày 5-1-1987, tàu HQ-674 của Hải đội 413 (Vùng 4) tiến hành cảnh giới quan sát đảo Thuyền Chài, tàu vận tải HQ-961 (Lữ đoàn 125) và tàu HQ-674 (Hải đội 413) đã kéo và vận chuyển các phao bè vào vị trí. Tàu vận tải có vũ trang HQ-614 cũng được điều động đến bãi Thuyền Chài. Các tàu chiến của Hạm đội cơ động 171 (Lữ đoàn 171) sẵn sàng chi viện khi có chiến sự xảy ra. Sở Chỉ huy phía trước ở đảo Nam Yết, khi xảy ra chiến đấu hoặc căng thẳng, cần thiết chuyển về Trường Sa để đảm bảo chỉ huy kịp thời, liên tục. Tháng 2-1987, tàu HQ-613 ra thay cho HQ-614 về căn cứ. 2 cán bộ chỉ huy của Vùng 4 ra thay thế cho các chỉ huy Lê Văn Thư và và Cao Ánh Đăng về đất liền, báo cáo tình hình với Bộ Tư lệnh Hải quân. Sáng ngày 5-3-1987, các chiến sĩ Hải quân Việt Nam treo cờ đỏ sao vàng lên ca bin của phao bè, khẳng định chủ quyền của Việt Nam. Thuyền Chài là đảo chìm đầu tiên được Việt Nam đóng giữ tại quần đảo Trường Sa. Từ tháng 3 đến tháng 5-1987, Trung đoàn 83 Công binh Hải quân hoàn thành việc xây dựng ở đảo Thuyền Chài và một số công trình khác trên đảo trong khi máy bay trinh sát quân sự của Philippines liên tục bay lượn trên đầu.

Giữa năm 1987, tình hình ở Biển Đông tiếp tục gia tăng căng thẳng. Tháng 2-1987, Hải quân Trung Quốc tổ chức tập trận lớn ở khu vực Hoàng Sa, có sự tham gia của các lực lượng tàu nổi, tàu ngầm, không quân và Lữ đoàn Hải quân đánh bộ số 1 mới thành lập. Các máy bay quân sự tầm xa của Trung Quốc tăng cường các chuyến bay tuần tra trinh sát vào sâu vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Lính thủy Trung Quốc giả dạng dân đánh cá để tiếp cận các vị trí đóng quân của Hải quân Việt Nam trên các điểm đảo ở Trường Sa.[9] Từ 15-5 đến 6-6-1987, Hải quân Trung Quốc lại tổ chức một cuộc diễn tập lớn ở phía nam Biển Đông. Trong các tháng 10 và 11-1987, Trung Quốc đưa tàu Hải Dương 4 là tàu trinh sát đội lót tàu nghiên cứu khoa học và một số tàu chiến đi qua các đảo An Bang, Thuyền Chài, Trường Sa Đông, Trưởng Sa, Song Tử Tây. Có lúc các tàu này vào sát đảo của Việt Nam ở khoảng cách 1 hải lý.

Ngày 6-11-1987, Bộ Quốc phòng Việt Nam chính thức phê chuẩn kế hoạch tác chiến bảo vệ chủ quyền Biển đảo 1987-1990 và ban hành Mệnh lệnh số 1679/ML-QP, giao nhiệm vụ cho Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân đưa lực lượng ra giữ các bãi cạn, không chờ xin chỉ thị của cấp trên. Trước mắt đưa ngay lực lượng ra đóng giữ các điểm đảo Đá Tây, Chữ Thập, Đá Lớn, Tiên Nữ. Ngày 30-11-1987, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra Nghị quyết 06-NQ/TW về đấu tranh bảo vệ chủ quyền 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Thực thi mệnh lệnh của Bộ Chính trị và Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân ra lệnh chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu đối với lực lượng bảo vệ các đảo thuộc quần đảo Trường Sa; đồng thời chỉ thị cho Lữ đoàn 125, Lữ đoàn 172, Trung đoàn 83 vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu, chuẩn bị lực lượng, phương tiện, sẵn sàng cơ động chiến đấu, ra xây dựng các công trình phòng thủ trên các bãi đá ta mới đóng giữ; điều chuyển một số tàu thuộc các Lữ đoàn 146, 125 đưa bộ đội đến tăng cường lực lượng đóng giữ các đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Nhằm tăng cường lực lượng, xây dựng thế trận phòng thủ trên các đảo và vùng biển phía Nam, Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam đã bổ sung thêm phương tiện cho Vùng 4 Hải quân, bảo vệ vị trí neo đậu cho tàu thuyền tại khu vực giàn khoan. Duy trì hàng ngày cặp tàu chiến trực canh để bảo vệ khu vực khai thác, bảo vệ an toàn cho công tác thăm dò và khai thác dầu khí. Hoạt động tuần tiễu ở khu vực giàn khoan của lực lượng Hải quân lúc cao nhất có 6 tàu của Hạm đội cơ động 171 (Lữ đoàn 171) và Hải đoàn 129. Một số tàu đánh cá nước ngoài đến hoạt động trái phép ở khu vực thềm lục địa hoặc tàu lạ xuất hiện đều bị Hải quân Việt Nam ngăn chặn xua đuổi, bảo vệ an toàn cho các hoạt động thăm dò, khai thác tài nguyên thiên nhiên trong các vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam.

Từ tháng 11-1987, Đô đốc Giáp Văn Cương, Tư lệnh Hải quân Việt Nam ra lệnh cho Lữ đoàn 146 đang bảo vệ các đảo ở quần đảo Trường Sa nâng cấp sẵn sàng chiến đấu từ thường xuyên lên tăng cường nhưng cần tránh âm mưu khiêu khích của đối phương. Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam chủ trương tăng cường phòng thủ quần đảo Trường Sa và điều lực lượng chốt giữ thêm một số đảo xung quanh các đảo đã đóng giữ, để tạo nên sức mạnh của một cụm đảo. Ngày 2-12-1987, tàu HQ-604 của Lữ đoàn 125 đưa các lực lượng hải quân đánh bộ và công binh cùng vật liệu đến xây nhà cấp 3 ở đảo Đá Tây. Cuối tháng 11-1987, khu nhà ở và nhà trực canh đã hoàn thành. Đơn vị chốt giữ Đá Tây lập tức tổ chức canh gác, bảo vệ đảo.

Giai đoạn 1988 - 1989

Bước sang năm 1988, tình hình khu vực quần đảo Trường Sa căng thẳng tột độ. Ngày 9-1-1988, Đảng ủy Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam nhận định rằng Trung Quốc sẽ tiến hành các hoạt động quân sự nhằm xâm lấn chủ quyền biển đảo của Việt Nam. Thậm chí, Trung Quốc sẽ chiếm một số bãi san hô nổi hoặc chìm, tạo thế cài răng lược với các đảo mà Việt Nam đang đóng giữ. Các nước khác cũng nhảy vào tranh chấp thêm các đảo kể cả khi có xung đột. Malaysia có thể chiếm đóng một số đảo nằm giữa đá Kỳ Vân và bãi Reagan. Cuộc tranh chấp các đảo đang trở thành nguy cơ trực tiếp đe dọa Việt Nam và các nước trong khu vực. Ở Vịnh Bắc Bộ, Trung Quốc có thể triển khai thêm khu vực khai thác dầu khí, sử dụng không quân và hải quân bảo vệ gây tình hình căng thẳng ở khu vực này. Ở Vịnh Thái Lan, Hải quân Mỹ thường xuyên qua lại có thể hỗ trợ cho hải quân Thái Lan mở rộng hoạt động, gây mất ổn định, uy hiếp chủ quyền vùng biển, hải đảo của Việt Nam ở phía Nam

Sự kiện đá Chữ Thập

Quân chủng Hải quân nhân dân Việt Nam chủ trương đưa quân ra đóng giữ các đảo Tiên Nữ, Đá Lớn, Đá Tây và Chữ Thập nhưng phía Trung Quốc đã đi trước một bước. Ngày 22-1-1988, hải quân Trung Quốc đưa 1 tàu hộ vệ tên lửa, 1 tàu khu trục, 1 tàu đổ bộ, 1 tàu chở dầu và một số tàu hậu cần bảo đảm tiến xuống phía Nam. Ngày 26-1-1988, Trung Quốc chiếm đóng Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef). Sau đó, Trung Quốc đưa ngay một lực lượng lớn gồm 2 tàu hộ vệ tên lửa, 2 khu trục tên lửa, 4 tàu bảo đảm đậu xung quanh đảo, khống chế không cho tàu thuyền các nước qua lại khu vực đảo này. Trong tháng 2-1988, hải quân đánh bộ và công binh Trung Quốc đã xây dựng những công trình phòng thủ ban đầu trên đá Chữ Thập.

Mãi đến ngày 27-1-1988, biên đội tàu HQ-611 và tàu HQ-712, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 Nguyễn Công Phán làm biên đội trưởng, Phó Tham mưu trưởng Vùng 4 Hải quân Nguyễn Thế Dân làm biên đội phó, chỉ huy 1 đại đội công binh và 2 khung đảo của Lữ đoàn 146 mới lên đường đến đóng giữ đảo Chữ Thập. Ngày 29-1-1988, tàu HQ-611 bị hỏng máy phải dừng lại sửa chữa. Quân chủng phái tàu HQ-07 ra ứng cứu. Phó Tham mưu trưởng Nguyễn Thế Dân chuyển sang tàu HQ-07 thuộc Lữ đoàn 171 đi làm nhiệm vụ bảo vệ đảo Đá Lớn. Lữ đoàn trưởng Công Phán ở lại đảm nhận phụ trách sửa chữa tàu và tiếp tục chỉ huy biên đội tiến về phía đảo Chữ Thập.

Sáng 30-1-1988, khi tàu HQ-712 di chuyển cách đảo 5 hải lý thì 4 tàu chiến của Trung Quốc gồm 2 tàu hộ vệ tên lửa và 2 tàu pháo ra ngăn cản, có lúc chỉ cách 300m, không cho tàu Việt Nam tiếp cận đảo. Lữ đoàn trưởng Công Phán phải cho biên đội quay về Trường Sa Đông, không thực hiện được việc đóng giữ đảo Chữ Thập như kế hoạch đề ra. Ngày 31-1-1988, Trung Quốc đưa thêm lực lượng củng cố đảo Chữ Thập thành căn cứ để khống chế Hải quân Việt Nam ở khu vực Trường Sa.

Việc Trung Quốc đánh chiếm đảo Chữ Thập là nhằm tạo ra một "đầu cầu" quân sự nằm trong một mưu đồ lớn để cướp đảo ở Trường Sa. Hải quân Trung Quốc đã tổ chức ba cụm tác chiến lớn nhằm triển khai chiến dịch chiếm đoạt quần đảo Trường Sa. Cụm hậu phương lấy Hoàng Sa làm Sở chỉ huy thường trực có các tàu pháo, tàu hộ vệ tên lửa, tàu khu trục tên lửa, các tàu ngầm và tàu hộ tống nhằm ngăn cản, uy hiếp lực lượng Hải quân Việt Nam đang hoạt động ở vịnh Bắc Bộ, gây khó khăn cho cho Việt Nam trong việc triển khai hoạt động bảo vệ vùng biển phía Nam để rảnh tay thực hiện các hoạt động chiếm đảo. Cụm tiền phương 1 có nhiệm vụ ngăn chặn lực lượng Hải quân Việt Nam ở Đông bán đảo Cam Ranh, Cù Lao Thu. Cụm tiền phương 2 khống chế hải quân Việt Nam ở khu vực Trường Sa, nếu có thời cơ phát triển lực lượng sâu xuống khu vực phía Nam. Sở chỉ huy hai cụm tiền phương đóng ở đảo Chữ Thập.

Hải quân Việt Nam chốt giữ thêm 5 đảo/đá

Ngày 4-2-1988, trong bối cảnh Trung Quốc gia tăng tàu chiến xuống khu vực giữa và nam Biển Đông. Thường vụ Đảng ủy Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam đã họp và đề ra các nhiệm vụ cấp bách bảo vệ chủ quyền ở quần đảo Trường Sa. Hội nghị nhận định: phía Trung Quốc đã cho quân đóng trên đảo Chữ Thập. Họ có thể mở rộng phạm vi chiếm đóng sang các đảo Châu Viên, Đá Đông, Đá Nam, Tốc Tan và tạo thế da báo. Do đó, Hải quân Việt Nam phải nhanh chóng đưa lực lượng ra đóng giữ Đá Lát, Đá Lớn và Châu Viên. Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam đã thành lập Sở chỉ huy tiền phương của chiến dịch đặt tại Cam Ranh. Chính phủ Việt Nam cũng phát động các phong trào "Cả nước hướng về Trường Sa", "Ủng hộ, chi viện Trường Sa và vì Trường Sa".

Ngày 5-2-1988, một biên đội gồm các tàu HQ-611 và HQ-712 đang neo đậu ở đảo Trường Sa Đông đã xuất phát đến đóng giữ đảo Đá Lớn. Ngày 6-2-1988, Hải quan Việt Nam chiếm giữ đảo Đá lớn. Ngày 13-2-1988, Lữ đoàn 125 cho tàu HQ-505 kéo theo tàu đổ bộ LCU-556 cùng một trung đội công binh làm nhà cao chân đóng giữ đảo Đá Lớn. Trong khi tàu Việt Nam đang tiến về phía đảo thì 1 tàu khu trục và 2 tàu hộ vệ tên lửa của Trung Quốc cũng tiến về Đá Lớn. Khi cách Đá Lớn khoảng 4 hải lý, tàu Trung Quốc thả thủy lôi ngăn cản, uy hiếp tàu Việt Nam. Ban chỉ huy tàu HQ-505 nhận định rằng Trung Quốc chưa biết ý đồ của Việt Nam đưa lực lượng ra đóng giữ đảo, việc thị uy của Trung Quốc không liên quan đến hành trình và tiếp tục cho tàu chạy theo hướng đã định. Ngày 15-2-1988, tàu HQ-505 đã đưa tàu LCU 556 tiến về phía bắc đảo Đá lớn và đóng chốt thành công ở đây nhằm bảo vệ các đơn vị đang xây dựng các công trình thể hiện chủ quyền của Việt Nam và công trình phục vụ ăn, ở sinh hoạt cho lực lượng bảo vệ đảo.

Cuối tháng 1 và đầu tháng 2-1988, các tàu quét mìn HQ-851 và HQ-852 của Lữ đoàn 161 đang được sửa chữa, bảo dưỡng định kỳ ở nhà máy đóng tàu Ba Son đã nhận được lệnh khẩn cấp về Sở chỉ huy Quân chủng ở Cam Ranh nhận nhiệm vụ. Ngày 3-2-1988, tàu HQ-851 rời nhà máy đi làm nhiệm vụ ở Trường Sa. Ngày 6-2-1988, tàu HQ-851 cập cảng Cam Ranh nhận lệnh trực tiếp từ Tư lệnh Quân chủng giao nhiệm vụ đi chốt giữ đảo Đá Đông. Ngày 8-2-1988 tàu HQ-851 xuất phát đi làm nhiệm vụ. Ngày 10-2-1988, tàu HQ-851 đến đảo Trường Sa Lớn và neo đậu tại đây một đêm. Sáng 11-2-1988, HQ-851 nhổ neo đi đảo Trường Sa Đông. Sau khi làm việc với chỉ huy đảo, thuyền trưởng HQ-951 cho tàu tiếp tục hành trình đến đảo chìm Đá Đông. Đến đảo Đá Đông, các sĩ quan, chiến sĩ tàu HQ-851 đã tiến hành khảo sát đo độ sâu, xác định các khu vực neo đậu và chốt trực bảo vệ đảo Đá Đông. Ngày 15-2-1988 (tức ngày 29 tết âm lịch), Sở chỉ huy Quân chủng điều động tàu vận tải HQ-614 của Vùng 4 Hải quân tới đảo Đá Đông, kết hợp với tàu HQ-851 lập thành biên đội do Sở chỉ huy tiền phương của Vùng 4 đang đặt ở tàu 614 trực tiếp chỉ huy. Sở chỉ huy tiền phương của Vùng 4 gồm Đại tá, chỉ huy trưởng Vùng Lê Văn Thư, Trung tá, Phó tham mưu trưởng vùng Nguyễn Văn Dân và Trung tá, Phó chủ nhiệm chính trị Vùng Lê Xuân Bạ có nhiệm vụ chỉ huy bộ đội vừa làm nhiệm vụ trực bảo vệ đảo, biên đội vừa triển khai cho bộ đội ở hai tàu ăn Tết Nguyên đán tại đảo Đá Đông.

Ngày 18-2-1988, các tàu HQ-851 và HQ-614 nhận lệnh đến chốt giữ, bảo vệ đảo Châu Viên. Lúc 12 giờ ngày 18-2-1988, khi biên đội tới đảo, tàu HQ-614 đã hạ xuồng chở 7 cán bộ, chiến sĩ lên đảo cắm cờ Việt Nam. Trong nước biển cường, bộ đội thay nhau xuống đảo giữ cờ. Do sóng to, nước lớn tàu HQ-851 bị rê neo trôi dần ra xa không thể chốt giữ được. Chỉ huy biên đội quyết định đưa tàu về đảo Đá Đông. 23 giờ ngày 18-2-1988, HQ-851 và HQ-614 nhận được điện hỏa tốc của Sở chỉ huy Quân chủng ra lệnh cho tàu quay trở lại đá Châu Viên và bằng mọi giá phải ủi tàu vào bãi, không cần chờ lệnh tiếp. 1 giờ sáng 19-2-1988, HQ-851 và HQ-614 nhổ neo quay lại đá Châu Viên và đến nơi lúc 5 giờ. Thấy tàu HQ-851 chuẩn bị ủi bãi, 3 tàu chiến của Trung Quốc lập tức lao đến cắt mũi, ngăn chặn. Tổ lái tàu HQ-851 tiếp tục điều khiển tàu tiến lên tìm cách tiếp cận đảo. Tàu Trung Quốc tiếp tục kèm sát và mở bạt, quay mũi súng chĩa thẳng về đài chỉ huy tàu Việt Nam đe dọa.

12 giờ ngày 19-2-1988, Sở chỉ huy Quân chủng điện cho tàu HQ-851 tiếp tục ủi bãi. HQ-851 và tàu chiến Trung Quốc giằng co quanh đảo Châu Viên. Với ưu thế hơn hẳn, 3 tàu lớn của Trung Quốc áp sát, cản trở, đâm va, tàu HQ-851 không thể ủi bãi để đưa tàu và người lên đảo. Sau một ngày quần thảo, đến 16 giờ ngày 19-2-1988, tàu HQ-851 bị hỏng 1 máy chính và 2 máy phụ. Sở chỉ huy tiền phương Vùng 4 Hải quân nhận định rằng đảo Đá Đông có vị trí cũng rất quan trọng, gần đảo Trường Sa Đông hơn đảo Châu Viên. Nếu HQ-851 cứ giằng co với tàu Trung Quốc ở Châu Viên cũng không thể đưa quân lên đảo mà có thể bị Trung Quốc đánh úp phía sau và để mất cả đảo Đá Đông. Chỉ huy vùng Lê Văn Thư quyết định cho hai tàu quay trở lại đóng giữ đảo Đá Đông trong lúc Trung Quốc đang tập trung lực lượng ở Châu Viên. 19 giờ ngày 19-2-1988, các tàu HQ-851, HQ-614 đã quay trở lại giữ đảo Đá Đông.

Ngày 20-2-1988, Hải quân Việt Nam triển khai xong các lực lượng phòng thủ ở đảo Đá Lát. Cùng ngày, tàu vận tải HQ-556 tiến vào chốt giữ phía Nam đảo Đá Lớn. Ngày 27-2-1988, tàu kéo Đại Lãnh của Công ty trục vớt cứu hộ Sài Gòn kéo theo tàu HQ-582 (tàu đổ bộ kiểu LCU) và phao bè Đ02 xuất phát từ Thành phố Hồ Chí Minh ra quần đảo Trường Sa. Ngày 1-3-1988, phao bè Đ02 được thả neo tại phía Bắc đảo Đá Lớn. Ngày 2-3-1988, Hải quân Việt Nam hoàn thành việc đóng giữ và triển khai phòng thủ tại đảo Đá Lớn.

Xung đột quân sự ở tam giác Cô Lin - Len Đao - Gạc Ma

Ngày 21-2-1988, Tư lệnh quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam ra lệnh cho Vùng III Hải quân chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu từ thường xuyên lên tăng cường. Lữ đoàn 162 và Hải đội tàu tên lửa 131 của Lữ đoàn 172 của Vùng I vào tăng cường cho Vùng III từ tháng 1-1988 chuyển trạng thái từ sẵn sàng chiến đấu thường xuyên lên sẵn sàng chiến đấu cao. Các lực lượng tàu phóng lôi, tàu tên lùa, tàu quét mìn nhanh chóng thực hiện các biện pháp chuyển vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu theo mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh quân chủng. Các trạm radar đối hải chuyển từ hoạt động quan sát thường xuyên sang quan sát tăng cường. Các hoạt động bảo đảm kỹ thuật, hậu cần cho sẵn sàng chiến đấu được đều được nâng cấp.

Các tàu chiến đều được bổ sung đủ định mức cơ bản về đạn dược, lương thực, thực phẩm và nhiên liệu. Với sự trợ giúp của các chuyên gia Liên Xô, Xưởng 50 đã nhanh chóng khắc phục, sửa chữa những hư hỏng của các tàu chiến và chuẩn bị vũ khí chiến đấu. Tổng cộng có 4 tàu tên lửa kiểu 205E lớp Osa II gồm HQ-358, HQ-359, HQ-360 và HQ-A61; 4 tàu phóng lôi kiểu 206ME lớp Turya gồm HQ-331, HQ-333, HQ-334, HQ-335; 2 tàu quét mìn 1265E1258E (HQ-861 và HQ-816), 2 tàu cá HQ-669, HQ-670 và 2 tàu đổ bộ LCU 455, 458, sẵn sàng làm nhiệm vụ theo mệnh lệnh của Quân chủng. Các trạm vũ khí 63, 67 chuẩn bị xong 11 quả ngư lôi trong đó có 4 quả nạp dầu T1 và 14 quả tên lửa chờ lệnh nạp nhiên liệu lỏng.

Ngày 26-2-1988, Hải quân Trung Quốc chiếm thêm đá Ga Ven. Cùng ngày, Hải quân Nhân dân Việt Nam đóng giữ đá Tiên Nữ. Ngày 27-2-1988, Hải quân Việt Nam tiếp tục đóng giữ đá Tốc Tan. Ngày 2-3, Hải quân Việt Nam tổ chức đóng giữ đá Núi Le, bước đầu tạo thế đứng chân trên các khu vực quan trọng thuộc quần đảo Trường Sa, ngăn chặn Trung Quốc mở rộng phạm vi lấn chiếm. Tổng cọng, đến tháng 3-1988, Hải quân Nhân dân Việt Nam đã triển khai xây dựng cơ bản thế trận phòng thủ trên các đảo Đá Lát, Đá Đông, Tốc Tan, Tiên Nữ và Đá Lớn, đưa tổng số thực thể địa lý mà Việt Nam đóng giữ ở quần đảo Trường Sa lên 16; trong đó có 9 đảo nổi và 7 đảo chìm.

Đầu tháng 3-1988, Hải quân Trung Quốc huy động lực lượng của hai hạm đội xuống khu vực quần đảo Trường Sa, nâng số lượng tàu hoạt động thường xuyên tại khu vực trung tâm quần đảo Trường Sa từ 9 lên 12 tàu chiến gồm 1 tàu khu trục tên lửa, 7 tàu hộ vệ tên lửa, 2 tàu hộ vệ pháo, 2 tàu đổ bộ. Ngoài ra còn có 3 tàu vận tải LSM chở nhiên liệu, đạn dược, lương thực, 1 tàu đo đạc, 1 tàu kéo và 1 phao bè lớn nhàm vào khu vực tam giác Gạc Ma-Cô Lin-Len Đao.

Bộ tư lệnh Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam nhận định Trung Quốc có ý đồ chiếm thêm một số bãi cạn xung quanh cụm đảo Sinh Tồn, Nam Yết và phía Đông kinh tuyến 115. Mặc dù điều kiện phương tiện, trang bị của Hải quân Nhân dân Việt Nam tại khu vực vùng IV chỉ gồm các tàu cũ, chủ yếu là tàu vận tải, sức chở hạn chế, hỏa lực yếu nhưng Bộ Tư lệnh Quân chủng vẫn hạ quyết tâm đóng giữ cụm tam giác Gạc Ma-Cô Lin-Len Đao trước khi các tàu chiến của Trung Quốc kéo đến đây.

Hồi 19 h ngày 11-3-1988, tàu vận tải HQ-604 rời cảng Cam Ranh ra đảo Gạc Ma. Ngày 12-3-1988, tàu HQ-605 từ đảo Đá Đông di chuyển đến đóng giữ đảo Len Đao. 5 h sáng ngày 14-3-1988, HQ-605 đến Len Đao và đổ quân, cắm cờ Việt Nam trên đảo. 9 h ngày 13-3, tàu HQ-604 đến Gạc Ma. Cùng thời điểm này, tàu đổ bộ HQ-505 từ đảo Đá Lớn đã cơ động đến đảo Cô Lin. Phối thuộc 2 tàu này có hai trung đội công binh gồm 70 người thuộc Trung đoàn công binh 83, 2 tiểu đội chiến đấu gồm 22 người thuộc Lữ đoàn 146 và 4 cán bộ 4 quan trắc,đo đạc của Đoàn đo đạc và biên vẽ bản đồ thuộc Bộ Tổng tham mưu.

30 phút sau khi các tàu Việt Nam đến thả neo tại cụm đảo/đá Gạc Ma - Cô Lin - Len Đao, một tàu hộ tống và 2 tàu vận tải có vũ trang của Hải quân Trung Quốc cũng từ bãi Hughes cơ động đến khu vực này, chạy vòng tròn vây quanh 2 tàu của Việt Nam và dùng loa yêu cầu các tàu Việt Nam rời đi. 21 h ngày 13-3-1988, Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam lệnh cho các tàu HQ-604 và HQ-505 nhanh chóng đổ quân, đóng giữ Cô Lin và Gạc Ma, cắm cờ xác định chủ quyền, triển khai 4 tổ chiến đấu bảo vệ lực lượng công binh của Trung đoàn 83 vận chuyển vật liệu lên xây dựng trên đảo.

Rạng sáng ngày 14-3-1988, Hải quân Trung Quốc điều thêm 2 tàu hộ vệ trang bị pháo 100 mm tăng cường cho các tàu đã đến trước đó và tiếp tục uy hiếp đòi các tàu của Việt Nam phải rời đi. Tuy nhiên, các tàu HQ-505 và HQ-604 của Việt Nam vẫn kiên trì bám trụ. 7 h sáng ngày 14-3-1988, các tàu chiến của Trung Quốc triển khai đội hình tấn công các tàu HQ-555 và HQ-604 của Việt Nam.

Việt Nam bảo vệ khu vực DK1